Dung môi phế thải từ thùng chứa được bơm lên thiết bị chưng cất. Nhằm giảm thiểu khả năng gây cháy nổ, quá trình bơm dung môi vào bồn gia nhiệt được thực hiện bằng bơm màng khí nén, sử dụng áp suất khí nén để vận hành bơm. Thiết bị chưng cất được cấp nhiệt bằng điện trở, nguồn điện 220 V, công suất 15 kW. Sau khi đóng điện, dây điện trở đốt nóng thiết bị chưng cất. Do có nhiệt độ sôi thấp nên dung môi bay hơi và theo ống dẫn vào thiết bị ngưng tụ. Mỗi loại dung môi khác nhau có nhiệt độ bay hơi không giống nhau do đó phải khống chế nhiệt độ tương ứng với nhiệt độ bay hơi của dung môi cần tách. Hệ thống có gắn nhiệt kế để theo dõi nhiệt độ làm việc của thiết bị.
Trong bình ngưng, tác nhân giải nhiệt là nước lạnh đi bên ngoài ống dẫn hơi và nhận nhiệt của hơi dung môi qua thành ống. Kết quả là hơi dung môi bị làm lạnh và ngưng tụ thành dạng lỏng, còn nước thì nóng lên. Nước nóng ra khỏi bình ngưng được dẫn vào tháp giải nhiệt để tái sử dụng. Hơi dung môi sau khi ngưng tụ thành dạng lỏng theo ống dẫn chảy vào thùng chứa là dạng thành phẩm đưa đi sử dụng hoặc bán cho các cơ sở có nhu cầu.
Cặn rắn phát sinh được tháo ra từ phía dưới thiết bị chưng cất vào thùng chứa. Cặn được đưa đi xử lý bằng cách thiêu hủy trong lò đốt CTNH. Tổng khối lượng cặn chiếm 15- 50% lượng ban đầu tùy theo độ bẩn của dung môi đem vào tái sinh